Hệ thống khoáng sản Khoáng vật học

Hanksit, Na22K(SO4)9(CO3)2Cl, một trong số ít khoáng vật có hàm lượng cacbon và sunfat trong cấu tạo

Khoáng vật học có hệ thống là việc xác định và phân loại được tính chất của chúng. Trong lịch sử, khoáng vật học chỉ tập trung chủ yếu vào cách phân loại khoáng vật tạo đá. Vào năm 1959, Hiệp hội liên hiệp quốc về khoáng vật học (International Mineralogical Association) đã thành lập Ủy ban tân khoáng vật và đặt tên khoáng sản để hợp lí hóa danh pháp và điều chỉnh việc giới thiệu tên mới của chúng. Vào tháng 7 năm 2006, Ủy ban cũ đã được sáp nhập với Ủy ban phân loại khoáng vật để trở thành Ủy ban tân khoáng vật, đặt tên và phân loại khoáng sản.[13] Có hơn 6,000 khoáng sản được đặt tên và chưa có tên, và khoảng 100 loại được phát hiện mỗi năm.[14] ‘’Cẩm nang’’ về khoáng vật học phân các khoáng sản theo các loại: nguyên tố tự nhiên, sunfua (sulfides), muối sunfua (sulfosalts), oxit và hydroxit (oxides and hydroxides), halogenua (halides), cacbonat, nitrat và borat (carbonates, nitrates and borates), sulfat, cromat, molydbat và tungstat (sulfates, chromates, molybdates and tungstates), photphat, arsenat và vanadate (phosphates, arsenates and vanadates), and silicat (silicates).[9]